infinity ads

Sunday 11 May 2014

SCP-036 - The Reincarnation Pilgrimage of the Yazidi (Kiras Guhorîn)



Xếp loại: Safe

Thủ tục kiểm soát đặc biệt: Cứ mỗi năm một lần, một lực lượng đặc nhiệm cơ động được cử từ Bộ tư lệnh Kiểm soát-02 trong [BỊ XÓA] đến Khu-22A để bảo vệ sân bay nằm ở đó. Các cơ sở dân sự cần được dọn đi hết bởi tất cả các nhân viên không phụ trách về SCP trong 0400 giờ ngày 23 tháng 9 và không ai được phép trở lại cho đến khi mặt trời mọc vào ngày hôm sau. Vào ngày 1 tháng 10, tất cả dân thường phải sơ tán một lần nữa trước khi mặt trời mọc và sẽ không được phép vào Khu-22A cho đến khi “Chuyến bay hành hương.” trở lại.

Khách quá đi từ “Chuyến bay Đến” chờ xuất cảnh trên “Chuyến bay Hành hương” chỉ có thể được kiểm tra qua bởi các nhà nghiên cứu với mặt bằng trống trải đạt mức an ninh Cấp 3 hoặc cao hơn.
Mô tả: SCP-036 bao gồm địa điểm, Khu-22A (một sân bay nhỏ ở khu vực Mosul ở miền bắc Iraq) và Khu-22B (điểm đến của hành khách lên máy bay tại trang Khu-22A). Các thành phần chính của SCP-036 là:

. “Chuyến bay đến”-. Một máy bay chở khách (thay đổi mẫu mã từ năm này sang năm khác) đến ngay trước bình minh ngày 23. Nó xuất hiện trên radar cách Khu-22A khoảng 30-40 km. Khi hạ cánh, “hành khách” rời khỏi máy bay và đi đến đầu cuối. Chưa từng có phi hành đoàn nào ra khỏi máy bay. Quan sát cho thấy một phi công đeo mặt nạ và phi công phụ. Máy bay này nhanh chóng rời đi sau khi những người khách ra ngoài và không hề đợi giải phóng mặt bằng trước khi cất cánh, cũng không xác định danh tính khi sắp hạ cánh.

. “Những người hành hương”- Người của đạo Yazidi rời khỏi chiếc máy bay “Đến”, người được cho là trải qua “kiras guhorîn”. Mỗi năm họ được kiểm tra và xác định là những tín đồ Yazidi đã mất trong năm trước đó. Việc này được thực hiện thông qua giấy khai sinh, nhận dạng hình ảnh, câu hỏi kiến thức cụ thể, và có thể cả vân tay. Hầu hết trong số họ được biết thân thiện và hòa nhã mặc dù đa số họ không muốn cung cấp thông tin chi tiết về guhorîn kiras. Trong quá khứ, tất cả bọn họ đã cho thấy là không thể nhận ra gia đình và bạn bè hay nhớ bất kỳ thông tin nào khác ngoài những gì trong trí nhớ ngắn hạn. Vào buổi chiều muộn của ngày 23 tháng 9, hầu hết các hành khách bắt đầu nhấn mạnh cuộc hành hương của họ quan trọng đến mức nào. Vào thời điểm đó, họ vào máy bay thuộc “Chuyến bay hành hương” và khởi hành, không bao giờ có ai nhìn thấy họ nữa.

. “Chuyến bay hành hương”- Một máy bay chở khách được cung cấp bởi nhân viên SCP để đưa đón “những người hành hương,” nó được điều khiển bởi một phi hành đoàn gồm những thầy tu Yazidi đã được đào tạo. Phi hành đoàn thường không bao giờ có thể nói rõ thêm chi tiết gì về cuộc hành hương hay kiras guhorîn thực sự là gì. Thiết bị trên khoang SCP về hoạt động tối ưu nhưng những dữ liệu ghi lại chỉ cung cấp chúng ta được từng tí thông tin về cuộc hành hương mỗi năm. Mặc dù máy bay đi mất trong bảy ngày, phi hành đoàn cũng như các dữ liệu ghi nhận chỉ có thể tính là một vài giờ. Có những ngày bị bỏ sót trong thiết bị ghi thời gian và camera, mặc dù chưa có điều gì bất thường được phát hiện. Chiếc máy bay biến mất khỏi radar và liên lạc trực quan bị mất khi cách Khu-22A khoảng 50-60 km cho đến khi nó trở về mặt trời mọc vào ngày 1 tháng 10.

. Khu-22B- Điểm đến của “Máy bay hành hương,” nó là một sân bay nhỏ bao gồm một đường băng và một tòa nhà đơn nằm ở tọa độ [BỊ XÓA]. Nó chỉ được quan sát bởi “Phi hành đoàn hành hương” và camera trên máy bay. Nó không xuất hiện trên hình ảnh vệ tinh và mọi nỗ lực đặt chân đến đó đều đã thất bại, trong đó một lần gặp hậu quả tai hại. Camera gặp vấn đề khi tập trung vào khu vực này, khi sức nóng từ mặt đất liên tục gây ra ảo ảnh cho tất cả các vật trong vùng xung quanh máy bay phải hơn vài tá mét. Chuyến bay kết thúc với một máy bay trinh sát SCP vài tuần trước khi cuộc hành hương tiết lộ về một vùng đất chưa phát triển và thứ trông giống như một bức tượng đá cổ xưa. Trong những năm 1990, Lực lượng Đặc nhiệm Cơ động SCP Sigma-4 đã cố tiếp cận Khu-22B trong thời gian diễn ra cuộc hành hương. Trong khi đang tiếp cận, liên lạc đã bị ngắt và không ai còn thấy lực lượng đặc nhiệm lần nào nữa. Đã có khuyến cáo không cố thăm dò thêm nữa trong chuyến hành hương bảy (7) ngày.

Ban đầu, những người Yazidi nói tiếng Kurd xung quanh Mosul tự họ bí mật thực hiện chuyến hành hương. Khách hành hương từ phía đông đã được hộ tống bởi nhóm bảo vệ bị mặt có vũ trang cưỡi lạc đà để trở lại chỗ những thầy tu Yazidi phụ trách. Người ta đã giải thích rằng những người thầy tu sau đó sẽ đưa những người hành hương sang hướng tây để đến “vùng đất người chết,” của họ, nơi những người hành hương sẽ chờ đợi để “tái sinh” trở lại vào người Yazidi. “guhorîn kiras”, từ tiếng Kurd có nghĩa là “thay đổi vẻ bề ngoài”, dùng để chỉ niềm tin về việc luân hồi mà những linh hồn thấp bé của người Yazidi trải qua. Trong khi cuộc hành hương thực tế này đã được thực hiện bí mật, một cuộc hành hương khác mang tính tượng trương và “kiras guhorîn” được thực hiện vào thời điểm này mỗi năm bởi người Yazidi khác.

Trong những năm 1960, việc thu hồi đất của người Kurd và người Hồi giáo, cuộc tấn công của Thổ Nhĩ Kỳ, và những hình phạt pháp luật Chính phủ Hồi giáo Iraq, đã làm hạn chế việc thực hiện phong tục của người Yazidi. Trong thời gian đó, Tổ Chức bước vào cuộc và cung cấp viện trợ một điều kiện thuận lợi là cho phép máy bay SCP ra vào không hạn chế ở các cơ sở sân bay trong khu vực. Gần như ngay lập tức, máy bay bí ẩn đưa những người hành hương từ phía đông bắt đầu hạ cánh tại sân bay địa phương và một sân bay bí ẩn ở đó cũng xuất hiện theo.

Nhóm dịch: Hài - Kinh

No comments:

Post a Comment